Câu hỏi:
Vị vua nào ở ngôi lâu nhất dưới triều Nguyễn?
Thông tin thêm: Vua Tự Đức tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, trị vì 36 năm, từ 1847 đến 1883. Ông được đánh giá là một vị vua tốt, chăm chỉ xem xét việc triều chính nhưng không quyết đoán.
Dưới thời Tự Đức, quân Pháp lần đầu nổ súng xâm lược Việt Nam vào năm 1858. Để chủ quyền đất nước dần rơi vào tay người Pháp, hoàng đế Tự Đức ngậm ngùi là học chưa thành, chí chưa thỏa, danh hão chưa đủ để trừ tội thực, sức yếu chưa đủ để làm việc nặng.
Không có con nối dõi nên khi ông băng hà, nhà Nguyễn trải qua thời kỳ đen tối 4 tháng thay 3 vua.
Sau Tự Đức, Minh Mạng là vị vua ở ngôi lâu thứ hai (1820-1841). Ông có nhiều cải cách quan trọng, như bỏ dinh, trấn, lập các tỉnh trong cả nước (31 tỉnh), định lại quan chế, lương bổng của quan lại thời này, khuyến khích dân khai hoang lập ấp...Lãnh thổ Việt Nam dưới thời vua Minh Mạng được mở rộng nhất trong lịch sử và trở thành nước hùng mạnh. Năm 1838, ông đổi tên nước thành Đại Nam.
Lo ngại tranh chấp trong hoàng tộc, vua Minh Mạng nghĩ ra phép đặt tên đôi cho dòng đế (vua) và dòng thân (anh em). Ông làm 11 bài thơ, một bài đặt là Đế hệ thi còn 10 bài kia đặt là Phiên hệ thi tặng cho 10 thân vương khác (4 hoàng tử đã qua đời trước khi vua lên ngôi). Ý nghĩa sâu sắc của cả 11 bài thơ này là phân chia các hoàng tử con của vua Gia Long làm hai hệ: đế hệ và phiên hệ. Đế hệ là dòng vua, là người có quyền thừa kế ngai vàng của tổ nghiệp. Còn phiên hệ là dòng thân, là bờ rào bao bọc xung quanh, bảo vệ cho ngai vàng ấy vững bền.
Vua Minh Mạng có tổng cộng 142 người con, gồm 74 hoàng tử và 68 công chúa.
Giải thích: Vua Tự Đức tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, trị vì 36 năm, từ 1847 đến 1883. Ông được đánh giá là một vị vua tốt, chăm chỉ xem xét việc triều chính nhưng không quyết đoán.
Dưới thời Tự Đức, quân Pháp lần đầu nổ súng xâm lược Việt Nam vào năm 1858. Để chủ quyền đất nước dần rơi vào tay người Pháp, hoàng đế Tự Đức ngậm ngùi là học chưa thành, chí chưa thỏa, danh hão chưa đủ để trừ tội thực, sức yếu chưa đủ để làm việc nặng.
Không có con nối dõi nên khi ông băng hà, nhà Nguyễn trải qua thời kỳ đen tối 4 tháng thay 3 vua.
Sau Tự Đức, Minh Mạng là vị vua ở ngôi lâu thứ hai (1820-1841). Ông có nhiều cải cách quan trọng, như bỏ dinh, trấn, lập các tỉnh trong cả nước (31 tỉnh), định lại quan chế, lương bổng của quan lại thời này, khuyến khích dân khai hoang lập ấp...Lãnh thổ Việt Nam dưới thời vua Minh Mạng được mở rộng nhất trong lịch sử và trở thành nước hùng mạnh. Năm 1838, ông đổi tên nước thành Đại Nam.
Lo ngại tranh chấp trong hoàng tộc, vua Minh Mạng nghĩ ra phép đặt tên đôi cho dòng đế (vua) và dòng thân (anh em). Ông làm 11 bài thơ, một bài đặt là Đế hệ thi còn 10 bài kia đặt là Phiên hệ thi tặng cho 10 thân vương khác (4 hoàng tử đã qua đời trước khi vua lên ngôi). Ý nghĩa sâu sắc của cả 11 bài thơ này là phân chia các hoàng tử con của vua Gia Long làm hai hệ: đế hệ và phiên hệ. Đế hệ là dòng vua, là người có quyền thừa kế ngai vàng của tổ nghiệp. Còn phiên hệ là dòng thân, là bờ rào bao bọc xung quanh, bảo vệ cho ngai vàng ấy vững bền.
Vua Minh Mạng có tổng cộng 142 người con, gồm 74 hoàng tử và 68 công chúa.